chất liệu văn hóa dân gian trong đất nước

Tính chất hóa học của kim loại – khái niệm, bảng tuần hoàn hóa học MỚI; Thơ đoạt giải cuộc thi Thơ báo Văn nghệ (1019 – 2020) – Báo văn nghệ Việt Nam; Tổng hợp bài viết về stress bằng tiếng Anh hay – Step Up English Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”. – Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng đậm đặc đã tạo nên một không gian nghệ thuật riêng của đoạn trích, vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu tưởng tượng, bay Dự án Luật Đất đai (sửa đổi) là nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng pháp luật trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV và sẽ được cho ý kiến lần đầu tại Kỳ họp thứ 4. Đóng góp ý kiến vào quá trình sửa đổi luật, ThS.Luật sư Đỗ Anh Thắng – Giám đốc Công ty Luật ASEM Việt Nam chỉ ra rằng, vấn Tỉnh Quảng Nam có mối quan hệ hợp tác gắn bó lâu đời với tỉnh Sê Kông nói riêng và các tỉnh Nam Lào nói chung trong đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như trong hoà bình xây dựng phát triển đất nước. Thời gian qua, mối quan hệ hợp tác gắn bó lâu đời giữa tỉnh Quảng Nam với các tỉnh Nam Lào ngày càng Tóm lại, tìm hiểu chất liệu văn hoá dân gian trong bài thơ Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm góp phần giúp giáo viên và học sinh nhận diện các giá trị các sản phầm VHDG, và sự tìm tòi khai thác sáng tạo đặc sắc của nhà thơ trong việc thể hiện cảm hứng chủ Đề bài: Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn trích Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm. Dàn ý. 1. MỞ BÀI: GIỚI THIỆU CHUNG: - Giới thiệu về: nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, tác phẩm “Mặt đường khát vọng” và đoạn thơ Đất Nước: Mở bài 1: “ Đất nước ” là một đề tài cao đẹp nhất của văn học kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Với vốn hiểu biết sâu sắc về lịch sử và văn hóa dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm trong trường ca “ Mặt đường khát vọng ” – 1974 đã có một khám phá thật mới Đó là Đất nước của nhân dân. Đề bài: Ý nghĩa của việc sử dụng chất liệu văn học và văn hóa dân gian trong đoạn trích “Đất nước" của trường ca “Mặt đường khát vọng” (Nguyễn Khoa Điềm) Bài làm Nhắc đến những kiệt tác có tầm vóc về đất nước: Nam quốc louigrasinor1973. 23/10/2020 1,618Câu HỏiSử dụng chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn thơ “Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm nhằm thể hiệnĐáp án và lời giảiđáp án đúng BSử dụng chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn thơ “Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm nhằm thể hiện niềm tự hào về truyền thống lịch sử Vận dụng sáng tạo chất liệu văn hóa văn học dân gian là đưa yếu tố văn hoá, văn học dân gian một cách sáng tạo vào trong tác phẩm. Để làm được điều này một cách tự nhiên, nhuần nhị, hấp dẫn là điều không hề dễ dàng. Nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã làm được điều đó. Đọc “Đất Nước”, ta thấy có những yếu tố của thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ca dao, tục ngữ. Có phong tục, lối sống, tập quán sinh hoạt của dân ta gắn với những hình ảnh quen thuộc như miếng trầu, bới tóc, cái kèo, cái cột, hạt gạo. Những chất liệu ấy được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sử dụng rất đa dạng và sáng tạo trong “ Đất Nước”. Điểm sáng tạo của nhà thơ khi vận dụng chất liệu là tác giả thường chỉ gợi ra bằng một vài chữ của câu ca dao hay một hình ảnh, một chi tiết trong truyền thuyết, cổ tích mà giúp người đọc cảm nhận được hình ảnh của một Đất Nước vừa thiêng liêng, vừa hiện hữu rõ ràng, vừa có chiều sâu văn hóa lịch sử, vừa bình dị thân quen với cuộc sống của mỗi người. đầu tiên phải kể đến trong việc vận dụng sáng tạo chất liệu văn hoá, văn học dân gian trong đoạn trích Đất Nước là vận dụng ca dao, tục ngữ một cách nhuần nhị. Mở đầu đoạn trích, tác giả đi lí giải về cội nguồn sinh ra đất nước. đất nước với Nguyễn Khoa Điềm không được tạo nên bởi những gì trừu tượng, xa xôi mà được hình thành, tạo nên bởi những gì gần gũi nhất. Đó là tình nghĩa thuỷ chung son sắt của cha mẹ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Câu thơ được lấy ý từ câu ca dao Tay bưng chén muối đĩa gừng Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” Ý thơ nhằm ca ngợi lối sống giàu tình nghĩa và tấm lòng thủy chung, son sắt của người Việt Nam. Đất nước ta gắn với nền văn minh lúa nước từ xa xưa . Bởi vậy, giải thích nguồn cội của đất nước nhà thơ không thể không nhắc đến hình ảnh cây lúa, hạt gạo “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng” Hình ảnh thơ gợi cuộc sống lam lũ, tảo tần. Để làm ra hạt gạo trắng thơm, người nông dân phải đổ biết bao mồ hôi công sức một nắng hai sương. Phảibán mặt cho đất, bán lưng cho giời, phải trải qua nhiều công đoạn xay, giã, dần, sàng mới có được thành quả. Câu thơ khiến ta liên tưởng đến bài ca dao “Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.” Khi định nghĩa về đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa người đọc đến với hình ảnh của một đất nước không hề xa lạ. Nó chính là nơi nảy nở của tình yêu lứa đôi khi mỗi người đến tuổi trưởng thành “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” Ý thơ được lấy từ bài ca dao quen thuộc nói “Khăn thương nhớ ai Khăn rơi xuống đất Khăn thương nhớ ai Khăn vắt lên vai…” Tình yêu đi liền với nó là nỗi nhớ. Nỗi nhớ chính là thước đo của tình yêu . Khi yêu nhau, gần nhau người ta cũng nhớ, xa nhau thì càng thấy nhớ thương da diết, cồn cào, cháy bỏng. Hình ảnh thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng sáng tạo bài ca dao Khăn thương nhớ ai.. để đem đến cho câu thơ một cảm nhận mới mẻ về nỗi nhớ trong tình yêu. Đất Nước trong định nghĩa của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ gắn với không gian nhỏ bé gần gũi là nơi anh đến trường, là bến nước nơi em tắm . Mà hình ảnh đất nước còn gắn với không gian rộng lớn mênh mông của rừng vàng, biển bạc “Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” “Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” Câu thơ được nhà thơ lấy cảm hứng trọn vẹn từ câu hò Bình- Trị- Thiên quen thuộc “Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi” Nguyễn Khoa Điềm được sinh ra và trưởng thành trên vùng đất giàu giá trị văn hóa, thơ Nguyễn Khoa Điềm thấm đẫm hồn Huế, chính vì thấm nhuần nền văn hóa dân gian nơi chôn nhau cắt rốn nên khi định nghĩa về đất nước, Nguyễn Khoa Điềm cũng đã nghĩ ngay đến câu ca dao bình dị của quê hương, xứ sở mình. Thật tự hào thay, quê hương mình lúc nào cũng trù phú, giàu đẹp “ rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu” Hồ Chí Minh Lịch sử nước ta là lịch sử của các vua hùng dựng và giữ nước . Từ xưa đến nay, mỗi người dân đất Việt luôn ý thức sâu sắc về nguồn cội của mình. Vì vậy, dù có đi đâu về đâu cũng không quên nhớ ngày giỗ tổ Hùng Vương “Hàng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ” Cội nguồn dân tộc, gốc gác tổ tiên là điều ta không bao giờ có thể quên. Vì vậy, Nguyễn Khoa Điềm nhắc nhở mỗi chúng ta về truyền thống uống nước nhớ nguồn từ bao đời nay của dân mình. Ca dao xưa cũng từng nhắc nhở ta “Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba” Từ nền văn học dân gian, nhà thơ đã khám phá ra biết bao vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của người Việt ta từ xa xưa. Đó là những con người yêu say đắm, thủy chung “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi” Ý thơ được lấy từ câu ca dao quen thuộc “Yêu em từ thuở trong nôi Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru” Từ ca dao, nhà thơ cũng khám phá ra vẻ đẹp của những con người biết quý trọng lối sống tình nghĩa, biết nâng niu, trân trọng những gì có được từ sự khó nhọc, gian nan “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội” Ca dao xưa cũng nói về những con người như thế “Cầm vàng mà lội qua sông Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng” Qua ca dao, Nguyễn Khoa Điềm cũng phát hiện ra phẩm chất bền bỉ kiên cường , quyết liệt trong chiến đấu, trong công cuộc dựng và giữ nước của cha ông ta “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù mà không sợ dài lâu”Bền bỉ, kiên cường , quyết liệt là những phẩm chất cần có của con người trong mọi thời kì, nhất là trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Câu thơ của thi nhân được lấy ý từ câu ca dao “Thù này ắt hẳn còn lâu Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què “ Như vậy có thể thấy, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng một cách sáng tạo ca dao, tục ngữ tạo nên những vần thơ thơ mượt mà đằm thắm, trữ tình, thiết tha. thứ hai trong việc vận dụng sáng tạo chất liệu văn hoá, văn học dân gian trong đoạn trích Đất Nước là đưa truyền thuyết, truyện cổ tích vào ý thơ một cách tự nhiên. Nguyễn Khoa Điềm không dùng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, cũng không dùng cách nói trang trọng để giải thích về nguồn cội của đất nước, mà tác giả đã chọn một cách nói dung dị nhưng thấm thía. “Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể” Đất nước có từ “ngày xửa ngày xưa”, tức là đất nước đã có từ lâu lắm rồi. Từ trong những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết mẹ thường hay kể cho ta bên cánh võng ầu ơ. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” cũng gợi ta liên tưởng đến những câu mở đầu thường thấy trong các câu truyện cổ dân gian mang âm hưởng của những câu chuyện cổ tích, đưa ta về một thuở rất xa xưa. Đất nước ta lớn lên cùng truyền thống đấu tranh giữ nước của dân tộc Câu thơ “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” gợi ta nghĩ đến truyền thuyết Thánh Gióng . Hình ảnh cậu bé vươn vai thành tráng sĩ nhổ tre đánh đuổi giặc Ân ra khỏi bờ cõi đã thể hiện tinh thần yêu nước kiên cường, bất khuất chống ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập dân tộc hơn bốn ngàn năm lịch sử của cha ông ta. Đất nước còn là nơi phát sinh và phát triển của cộng đồng người Việt qua bao thế hệ. Từ thuở sơ khai, với truyền thuyết “Con Rồng cháu Tiên”, “Lạc Long Quân và Âu Cơ” đã “ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” “Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” Nguyễn Khoa Điềm đã thật sáng tạo trong ý thơ. Chỉ bằng một vài hình ảnh đã gợi ra những truyền thuyết xa xưa về nguồn cội dân mình. Dân tộc ta là con rồng, cháu tiên cùng được sinh ra từ bọc trăm trứng nở ra trăm con của cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ. Đất nước trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm thật gần gũi, quen thuộc biết bao. Nhà thơ vận dụng rộng rãi nhiều chất liệu văn học dân gian từ các câu chuyện cổ tích, truyền thuyết của nhân dân ta để cảm nhận về đất nước. Cách nói này vừa đậm đà tính dân tộc, vừa giàu tính trí tuệ mới mẻ. thứ ba trong việc vận dụng sáng tạo chất liệu văn hoá, văn học dân gian trong đoạn trích Đất Nước là sử dụng những yếu tố của phong tục tập quán người Việt Nam để cảm nhận về đất nước. Đất nước với Nguyễn Khoa Điềm không chỉ gắn với những câu tục ngữ, ca dao, những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết mà nó còn gắn với bề dày truyền thống văn hóa với những phong tục tập quán có từ ngàn đời xưa của cha ông ta “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn” Hình ảnh miếng trầu gợi liên tưởng tới sự tíchtrầu cau, đến phong tục ăn trầu của người Việt. Nét đẹp văn hóa ấy cho đến ngày nay vẫn được bảo tồn, lưu giữ. Bởi từ xưa đối với người Việt ta miếng trầu là đầu câu chuyện, miếng trầu nên dâu nhà người. Đất nước thật lớn lao kì vĩ lại được bắt đầu từ những điều nhỏ bé bình dị biết bao! Không chỉ có tục lệ ăn trầu, mà tục bới tóc sau đầu cũng là một nét đẹp văn hóa được nhà thơ gợi nhắc qua câu thơ “Tóc mẹ thì bới sau đầu” Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm gợi ta nhớ đến lời ca dao “Tóc ngang lưng vừa chừng em bới Để chi dài bối rối lòng anh.” Bới tóc sau đầu là là một thói quen đã trở thành tập tục từ ngàn đời xưa của dân ta. Hình ảnh người mẹ có bới tóc sau đầu gợi vẻ đẹp hồn hậu, giản dị, dịu dàng, nữ tính. Đây là nét đẹp văn hóa có sức sống lâu bền. Dù trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc nhưng nét đẹp ấy vẫn được giữ gìn. Theo tiến trình phát triển của đất nước, dân tộc ta tiến lên nền văn minh lúa nước gắn với nền sản xuất nông nghiệp. Người Việt ta từ xưa đã biết xây dựng nhà cửa để che mưa, trú nắng “Cái kèo, cái cột thành tên” Cái kèo, cái cột là những vật dụng quen thuộc khi dựng nhà của cha ông ta. Những vật dụng ấy đã được lấy để đặt tên cho con cái. Những cách đặt tên không cầu kì, hoa mĩ thể hiện được nếp sống hồn nhiên, giản dị của người xưa. Hình ảnh miếng trầu giản dị hiện lên trên cái miệng móm mém nhai trầu của bà, mái tóc bới sau đầu của mẹ, cách gọi tên “cái kèo, cái cột” dân dã. Những điều tưởng chừng như bình thường ấy đã trở thành nếp sống, nét đẹp văn hóa, thuần phong mĩ tục đậm đà bản sắc Việt Nam. Qua việc vận dụng đậm đặc, sáng tạo chất liệu văn hoá văn học dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã làm nổi bật trước mắt người đọc hình ảnh của một đất nước vừa thiêng liêng, vừa hiện hữu rõ ràng, vừa có chiều sâu văn hoá lịch sử, vừa bình dị thân quen với cuộc sống quanh ta. Chất dân gian thấm sâu vào tư duy nghệ thuật, tư tưởng cảm xúc của nhà thơ trong Đất Nước tạo nên một dấu ấn độc đáo khó phai trong lòng mỗi bạn đọc yêu văn! VẺ ĐẸP CỦA CHẤT LIỆU VĂN HÓA, VĂN HỌC DÂN GIAN TRONG ĐẤT NƯỚC Giới thiệu Văn học trung học phổ thông VĂN HỌC trung học cơ sở Cảm Nhận Học Sinh Khoá học Sách Văn Chị Hiên Tin TứcVận dụng phát minh sáng tạo chất liệu văn hóa truyền thống văn học dân gian là đưa yếu tố văn hoá, văn học dân gian một cách phát minh sáng tạo vào trong tác phẩm. Để làm được điều này một cách tự nhiên, nhuần nhị, mê hoặc là điều không hề thuận tiện. Nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã làm được điều đó. Đọc “ Đất Nước ”, ta thấy có những yếu tố của truyền thuyết thần thoại, thần thoại cổ xưa, cổ tích, ca dao, tục ngữ. Có phong tục, lối sống, tập quán hoạt động và sinh hoạt của dân ta gắn với những hình ảnh quen thuộc như miếng trầu, bới tóc, cái kèo, cái cột, hạt gạo. Những chất liệu ấy được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sử dụng rất phong phú và phát minh sáng tạo trong “ Đất Nước ”. Điểm phát minh sáng tạo của nhà thơ khi vận dụng chất liệu là tác giả thường chỉ gợi ra bằng một vài chữ của câu ca dao hay một hình ảnh, một chi tiết cụ thể trong thần thoại cổ xưa, cổ tích mà giúp người đọc cảm nhận được hình ảnh của một Đất Nước vừa thiêng liêng, vừa hiện hữu rõ ràng, vừa có chiều sâu văn hóa truyền thống lịch sử dân tộc, vừa bình dị thân quen với đời sống của mỗi người .Bạn đang xem Chất liệu văn hóa truyền thống văn học dân gian là gì 1. Điểm đầu tiên phải kể đến trong việc vận dụng sáng tạo chất liệu văn hoá, văn học dân gian trong đoạn trích Đất Nước là vận dụng ca dao, tục ngữ một cách nhuần nhị. Mở đầu đoạn trích, tác giả đi lí giải về cội nguồn sinh ra quốc gia. quốc gia với Nguyễn Khoa Điềm không được tạo nên bởi những gì trừu tượng, xa xôi mà được hình thành, tạo nên bởi những gì thân mật nhất. Đó là tình nghĩa thuỷ chung son sắt của cha mẹ ” Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặnCâu thơ được lấy ý từ câu ca dao Tay bưng chén muối đĩa gừngGừng cay muối mặn xin đừng quên nhau “Ý thơ nhằm mục đích ca tụng lối sống giàu tình nghĩa và tấm lòng thủy chung, son sắt của người Nước Ta .Đất nước ta gắn với nền văn minh lúa nước từ rất lâu rồi. Bởi vậy, lý giải nguồn cội của quốc gia nhà thơ không hề không nhắc đến hình ảnh cây lúa, hạt gạo ” Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng ” .Hình ảnh thơ gợi đời sống lam lũ, tảo tần. Để làm ra hạt gạo trắng thơm, người nông dân phải đổ biết bao mồ hôi sức lực lao động một nắng hai sương. Phảibán mặt cho đất, bán sống lưng cho giời, phải trải qua nhiều quy trình xay, giã, dần, sàng mới có được thành quả. Câu thơ khiến ta liên tưởng đến bài ca dao ” Cày đồng đang buổi ban trưaMồ hôi thánh thót như mưa ruộng càyAi ơi bưng bát cơm đầyDẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần. “Khi định nghĩa về quốc gia, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa người đọc đến với hình ảnh của một quốc gia không hề lạ lẫm. Nó chính là nơi nảy nở của tình yêu lứa đôi khi mỗi người đến tuổi trưởng thành ” Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm “Ý thơ được lấy từ bài ca dao quen thuộc nói ” Khăn thương nhớ aiKhăn rơi xuống đấtKhăn thương nhớ aiKhăn vắt lên vai … “Tình yêu đi liền với nó là nỗi nhớ. Nỗi nhớ chính là thước đo của tình yêu. Khi yêu nhau, gần nhau người ta cũng nhớ, xa nhau thì càng thấy nhớ thương da diết, cồn cào, cháy bỏng. Hình ảnh thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng phát minh sáng tạo bài ca dao Khăn thương nhớ ai .. để đem đến cho câu thơ một cảm nhận mới lạ về nỗi nhớ trong tình yêu .Đất Nước trong định nghĩa của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ gắn với khoảng trống nhỏ bé thân mật là nơi anh đến trường, là bến nước nơi em tắm. Mà hình ảnh quốc gia còn gắn với khoảng trống to lớn bát ngát của rừng vàng, biển bạc ” Đất là nơi “ con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc ”” Nước là nơi “ con cá ngư ông móng nước biển khơi ”Câu thơ được nhà thơ lấy cảm hứng toàn vẹn từ câu hò Bình – Trị – Thiên quen thuộc ” Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạcCon cá ngư ông móng quốc tế khơi ” .Nguyễn Khoa Điềm được sinh ra và trưởng thành trên vùng đất giàu giá trị văn hóa truyền thống, thơ Nguyễn Khoa Điềm thấm đẫm hồn Huế, chính vì thấm nhuần nền văn hóa truyền thống dân gian nơi chôn nhau cắt rốn nên khi định nghĩa về quốc gia, Nguyễn Khoa Điềm cũng đã nghĩ ngay đến câu ca dao bình dị của quê nhà, xứ sở mình. Thật tự hào thay, quê nhà mình khi nào cũng phong phú, giàu đẹp “ rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu ” Hồ Chí Minh Lịch sử nước ta là lịch sử dân tộc của những vua hùng dựng và giữ nước. Từ xưa đến nay, mỗi người dân đất Việt luôn ý thức thâm thúy về nguồn cội của mình. Vì vậy, dù có đi đâu về đâu cũng không quên nhớ ngày giỗ tổ Hùng Vương ” Hàng năm ăn đâu làm đâuCũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ ” .Cội nguồn dân tộc bản địa, gốc gác tổ tiên là điều ta không khi nào hoàn toàn có thể quên. Vì vậy, Nguyễn Khoa Điềm nhắc nhở mỗi tất cả chúng ta về truyền thống lịch sử uống nước nhớ nguồn từ bao đời nay của dân mình. Ca dao xưa cũng từng nhắc nhở ta ” Dù ai đi ngược về xuôiNhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba ” .Từ nền văn học dân gian, nhà thơ đã mày mò ra biết bao vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của người Việt ta từ rất lâu rồi. Đó là những con người yêu say đắm, thủy chung ” Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi “Ý thơ được lấy từ câu ca dao quen thuộc “Yêu em từ thuở trong nôi Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru ” .Từ ca dao, nhà thơ cũng tò mò ra vẻ đẹp của những con người biết quý trọng lối sống tình nghĩa, biết nâng niu, trân trọng những gì có được từ sự khó nhọc, gian truân ” Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội “Ca dao xưa cũng nói về những con người như vậy ” Cầm vàng mà lội qua sôngVàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng ” .Qua ca dao, Nguyễn Khoa Điềm cũng phát hiện ra phẩm chất bền chắc kiên cường, kinh khủng trong chiến đấu, trong công cuộc dựng và giữ nước của cha ông ta ” Biết trồng tre đợi ngày thành gậyĐi trả thù mà không sợ vĩnh viễn ” .Như vậy hoàn toàn có thể thấy, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng một cách phát minh sáng tạo ca dao, tục ngữ tạo nên những vần thơ thơ quyến rũ đằm thắm, trữ tình, thiết tha . 2. Điểm thứ hai trong việc vận dụng sáng tạo chất liệu văn hoá, văn học dân gian trong đoạn trích Đất Nước là đưa truyền thuyết, truyện cổ tích vào ý thơ một cách tự thêm Mắm Cá Linh Lọ 430G | Đặc Sản Mắm Cá Linh Nguồn Gốc Mùa Nước Nổi Ở Nguyễn Khoa Điềm không dùng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, cũng không dùng cách nói sang trọng và quý phái để lý giải về nguồn cội của quốc gia, mà tác giả đã chọn một cách nói dung dị nhưng thấm thía .” Đất Nước có trong những cái “ ngày xửa thời xưa ” mẹ thường hay kể “Đất nước có từ “ ngày xửa thời xưa ”, tức là quốc gia đã có từ lâu lắm rồi. Từ trong những câu truyện cổ tích, truyền thuyết thần thoại mẹ thường hay kể cho ta bên cánh võng ầu ơ. Cụm từ “ ngày xửa thời xưa ” cũng gợi ta liên tưởng đến những câu khởi đầu thường thấy trong những câu truyện cổ dân gian mang âm hưởng của những câu truyện cổ tích, đưa ta về một thuở rất thời xưa .Đất nước ta lớn lên cùng truyền thống cuội nguồn đấu tranh giữ nước của dân tộc bản địa Câu thơ “ Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc ” gợi ta nghĩ đến thần thoại cổ xưa Thánh Gióng. Hình ảnh cậu bé vươn vai thành tráng sĩ nhổ tre đánh đuổi giặc n ra khỏi bờ cõi đã bộc lộ niềm tin yêu nước kiên cường, quật cường chống ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập dân tộc bản địa hơn bốn ngàn năm lịch sử vẻ vang của cha ông ta .Đất nước còn là nơi phát sinh và tăng trưởng của hội đồng người Việt qua bao thế hệ. Từ thuở sơ khai, với truyền thuyết thần thoại “ Con Rồng cháu Tiên ”, “ Lạc Long Quân và u Cơ ” đã “ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng ” ” Đất là nơi Chim vềNước là nơi Rồng ởLạc Long Quân và u CơĐẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng ” .Nguyễn Khoa Điềm đã thật phát minh sáng tạo trong ý thơ. Chỉ bằng một vài hình ảnh đã gợi ra những truyền thuyết thần thoại thời xưa về nguồn cội dân mình. Dân tộc ta là con rồng, cháu tiên cùng được sinh ra từ bọc trăm trứng nở ra trăm con của cha Lạc Long Quân và mẹ u Cơ .Đất nước trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm thật thân thiện, quen thuộc biết bao. Nhà thơ vận dụng thoáng đãng nhiều chất liệu văn học dân gian từ những câu truyện cổ tích, truyền thuyết thần thoại của nhân dân ta để cảm nhận về quốc gia. Cách nói này vừa đậm đà tính dân tộc bản địa, vừa giàu tính trí tuệ mới mẻ và lạ mắt . 3. Điểm thứ ba trong việc vận dụng sáng tạo chất liệu văn hoá, văn học dân gian trong đoạn trích Đất Nước là sử dụng những yếu tố của phong tục tập quán người Việt Nam để cảm nhận về đất nước. Đất nước với Nguyễn Khoa Điềm không chỉ gắn với những câu tục ngữ, ca dao, những câu truyện cổ tích, thần thoại cổ xưa mà nó còn gắn với bề dày truyền thống lịch sử văn hóa truyền thống với những phong tục tập quán có từ ngàn đời xưa của cha ông ta ” Đất Nước mở màn với miếng trầu giờ đây bà ăn ” .Hình ảnh miếng trầu gợi liên tưởng tới sự tíchtrầu cau, đến phong tục ăn trầu của người Việt. Nét đẹp văn hóa truyền thống ấy cho đến thời nay vẫn được bảo tồn, lưu giữ. Bởi từ xưa so với người Việt ta miếng trầu là đầu câu truyện, miếng trầu nên dâu nhà người. Đất nước thật lớn lao kì vĩ lại được mở màn từ những điều nhỏ bé bình dị biết bao !Không chỉ có tục lệ ăn trầu, mà tục bới tóc sau đầu cũng là một nét đẹp văn hóa truyền thống được nhà thơ gợi nhắc qua câu thơ ” Tóc mẹ thì bới sau đầu “Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm gợi ta nhớ đến lời ca dao ” Tóc ngang sống lưng vừa chừng em bớiĐể chi dài hoảng sợ lòng anh. “Bới tóc sau đầu là là một thói quen đã trở thành tập tục từ ngàn đời xưa của dân ta. Hình ảnh người mẹ có bới tóc sau đầu gợi vẻ đẹp hồn hậu, đơn giản và giản dị, êm ả dịu dàng, êm ả dịu dàng. Đây là nét đẹp văn hóa truyền thống có sức sống lâu bền. Dù trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc nhưng nét đẹp ấy vẫn được giữ gìn .Theo tiến trình tăng trưởng của quốc gia, dân tộc bản địa ta tiến lên nền văn minh lúa nước gắn với nền sản xuất nông nghiệp. Người Việt ta từ xưa đã biết kiến thiết xây dựng nhà cửa để che mưa, trú nắng ” Cái kèo, cái cột thành tên ” .Cái kèo, cái cột là những đồ vật quen thuộc khi dựng nhà của cha ông ta. Những đồ vật ấy đã được lấy để đặt tên cho con cháu. Những cách đặt tên không cầu kì, hoa mĩ biểu lộ được nếp sống hồn nhiên, đơn giản và giản dị của người xưa .Hình ảnh miếng trầu đơn giản và giản dị hiện lên trên cái miệng móm mém nhai trầu của bà, mái tóc bới sau đầu của mẹ, cách gọi tên “ cái kèo, cái cột ” dân dã. Những điều tưởng chừng như thông thường ấy đã trở thành nếp sống, nét đẹp văn hóa truyền thống, thuần phong mĩ tục đậm đà truyền thống Nước Ta . Qua việc vận dụng đậm đặc, sáng tạo chất liệu văn hoá văn học dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã làm nổi bật trước mắt người đọc hình ảnh của một đất nước vừa thiêng liêng, vừa hiện hữu rõ ràng, vừa có chiều sâu văn hoá lịch sử, vừa bình dị thân quen với cuộc sống quanh ta. Chất dân gian thấm sâu vào tư duy nghệ thuật, tư tưởng cảm xúc của nhà thơ trong Đất Nước tạo nên một dấu ấn độc đáo khó phai trong lòng mỗi bạn đọc yêu văn! Tác giả Bùi Thị Thu Phương / trung học phổ thông Nguyễn Viết Xuân Để làm chủ bài văn, các em có thể đăng ký khóa học 10 NGÀY “CHẠY” VĂNcủa Học Văn chị Hiên nhé! Văn hóa dân gian là bộ phận không thể tách rời của di sản văn hóa quốc gia, thể hiện sự đa dạng và phong phú của tinh hoa dân tộc. Chất liệu văn hóa dân gian là những tài liệu, vật phẩm, phong tục, hình ảnh, âm nhạc, truyền thuyết, và các giá trị tinh thần khác được lưu truyền qua hàng thế hệ. Bài viết này sẽ giới thiệu và khám phá những chất liệu văn hóa dân gian đặc sắc trong đất nước của chúng ta, nhằm tôn vinh và giữ gìn di sản quý giá này. Truyền thuyết và ca dao Truyền thuyết và ca dao là hai hình thức văn hóa dân gian được lưu truyền từ bao đời nay. Chúng không chỉ thể hiện sự sáng tạo và tài hoa của người dân, mà còn là bài học lịch sử, đạo đức và triết lý sống. Truyền thuyết và ca dao phản ánh tâm hồn dân tộc, sự hiểu biết về tự nhiên, xã hội, và niềm tin tôn giáo của mỗi miền đất. Lễ hội dân gian Lễ hội dân gian là những sự kiện văn hóa đặc trưng của từng vùng miền trong đất nước. Chúng thể hiện niềm vui, sự đoàn kết, và tín ngưỡng của người dân, đồng thời là cơ hội để các nghệ nhân, nghệ sĩ thể hiện tài năng và sự sáng tạo. Các lễ hội dân gian như Đua bò Bảy Núi, Lễ hội Đền Hùng, Lễ hội Lim, hay Lễ hội Chùa Hương là những minh chứng sống động cho sự phong phú và đa dạng của di sản văn hóa dân gian. Nghệ thuật biểu diễn dân gian Nghệ thuật biểu diễn dân gian là một hình thức văn hóa đặc sắc, thể hiện sự sáng tạo và tinh hoa của người dân. Các loại hình nghệ thuật biểu diễn dân gian như hát chèo, hát xẩm, tuồng, ca trù, dân ca quan họ, múa lân, và hát bội không chỉ giúp giải trí, mà còn góp phần gìn giữ và truyền bá di sản văn hóa dân gian. Những biểu diễn này thể hiện tài năng của nghệ sĩ, sự đa dạng văn hóa của từng vùng miền, và niềm tự hào dân tộc. Đồ thủ công mỹ nghệ dân gian Đồ thủ công mỹ nghệ dân gian là minh chứng cho sự khéo léo, tài hoa và óc sáng tạo của người dân. Các sản phẩm thủ công như gốm sứ, đồ mộc, dệt may, đan lát, và khảm trai không chỉ đẹp mắt và hữu ích, mà còn mang đậm bản sắc văn hóa của từng vùng miền. Đồ thủ công mỹ nghệ dân gian hiện nay được rất nhiều người ưa chuộng và sử dụng, không chỉ trong nước mà còn trên thị trường quốc tế. Ẩm thực dân gian Ẩm thực dân gian là một phần không thể thiếu của di sản văn hóa quốc gia. Mỗi vùng miền có những đặc sản ẩm thực độc đáo, phong phú và hấp dẫn, tạo nên bản sắc ẩm thực đặc trưng của đất nước. Các món ăn dân gian như phở, bánh mì, bún chả, bánh xèo, nem cuốn, và cơm tấm không chỉ ngon miệng, mà còn thể hiện sự đa dạng văn hóa và sáng tạo của người dân. Chất liệu văn hóa dân gian trong đất nước là những giá trị quý giá được lưu truyền qua hàng thế hệ, thể hiện sự đa dạng và phong phú của di sản văn hóa quốc gia. Việc gìn giữ và phát huy những chất liệu văn hóa dân gian này không chỉ giúp tôn vinh bản sắc dân tộc, mà còn góp phần nâng cao đời sống tinh thần và tạo nên sự hài hòa giữa truyền thống và hiện đại. Hãy cùng nhau bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa dân gian trong đất nước của chúng ta. Phó chủ tịch UBND tỉnh An Giang Lê Văn Phước phát biểu tại lễ khai mạc nêu bật sự kiện này càng có ý nghĩa hơn khi được tổ chức vào dịp tỉnh An Giang chuẩn bị kỷ niệm 135 năm ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng và kỷ niệm 10 năm thành lập TP Châu Châu Đốc hấp dẫn bởi tài nguyên du lịch phong phú, nổi bật với địa hình núi đá nổi giữa vùng đồng bằng trù phú, liền kề hệ thống kênh rạch tạo nên cảnh quan thiên nhiên độc đáo; các giá trị lịch sử, văn hóa gắn liền khu danh thắng núi Sam với quần thể di tích được xếp hạng cấp quốc gia như miếu Bà Chúa Xứ, lăng Thoại Ngọc Hầu, chùa Tây An, chùa Phước Điền hay còn gọi là chùa Hang.Tiết mục văn nghệ tại lễ khai mạc Lễ hội cấp quốc gia Vía Bà Chúa Xứ núi Sam năm 2023. Ảnh TTXVNĐặc biệt là giá trị văn hóa truyền thống của Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam có sức hút mạnh mẽ đối với hàng triệu người dân, du khách cả trong và ngoài hội được gắn với chuỗi các sự kiện lớn của thành phố Châu Đốc từ ngày 8 - 14/6 nhằm ngày 21/4 đến 27/4 âm lịch, như Lễ kỷ niệm 323 năm ngày mất Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh 1700 - 2023, 194 năm ngày mất danh thần Thoại Ngọc Hầu 1829 - 2023.Sau Lễ khai hội, thành phố Châu Đốc tổ chức lễ phục hiện rước tượng Bà, Lễ rước được thực hiện theo đúng nghi lễ cổ truyền thông qua hình thức sân khấu hóa đặc sắc đã tái hiện lại nguồn gốc, lịch sử bà Chúa các ngày diễn ra Lễ hội Vía bà Chúa Xứ Núi Sam, cùng với phần nghi lễ trang trọng, để thu hút khách du lịch và nhân dân, UBND thành phố Châu Đốc còn tổ chức các hoạt động văn hóa, nghệ thuật sôi nổi phục vụ nhân dân và du khách như Biểu diễn múa lân sư rồng; chương trình văn nghệ mang sắc thái văn hóa 4 dân tộc Kinh, Khmer, Hoa, Chăm…Cùng với đó là hội thi thả đèn hoa đăng, triển lãm ảnh nghệ thuật, các hoạt động thể thao quần vợt, cờ tướng, thể dục dưỡng sinh, hội thi leo núi, các trò chơi dân gian giật cờ, tung cầu, nhảy bao bố, trò chơi vận động liên hoàn, bóng chuyền hơi…Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân thành phố Châu Đốc, An Giang; chứa đựng những giá trị lịch sử - văn hóa đặc trưng trong dòng chảy văn hóa Nam Bộ. Bản sắc văn hóa trong Lễ hội được cộng đồng duy trì, thực hành, trao truyền, từ thế hệ này sang thế hệ khác, có tính lan tỏa mạnh mẽ trong đời sống văn hóa tâm hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam là dịp để giới thiệu, quảng bá tới đồng đảo nhân dân và du khách trong, ngoài nước về tiềm năng và thế mạnh, vẻ đẹp và sức hấp dẫn của du lịch Châu Đốc nói riêng, An Giang nói chung. Đồng thời, qua đó giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, xây dựng thành phố Châu Đốc văn minh hiện đại, hấp dẫn thân thiện, giàu bản sắc..Là lễ hội truyền thống của người dân Châu Đốc hàng trăm năm nay, Lễ hội mang đậm văn hóa của cư dân vùng Tây Nam Bộ, thể hiện bản sắc và sự kế tục của cộng đồng người Kinh trong tiến trình giao lưu tiếp biến văn hóa với người Hoa, Khmer, 2014, Lễ hội đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. UBND tỉnh An Giang quyết định không thu phí tham quan Khu du lịch quốc gia Núi Sam đối với du khách trong dịp Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam từ ngày 8 - 14/ tổng hợp